Lịch sử Hàn_Quốc

Bài chi tiết: Lịch sử Triều Tiên

Lịch sử Hàn Quốc trước năm 1945 được trình bày trong phần Lịch sử Triều Tiên. (Xem thêm bài Danh sách Tổng thống Hàn Quốc.)

Khái quát

Thời kỳ Đế quốc Nhật Bản thống trị Triều Tiên từ năm 1910 đến 1945 chấm dứt cùng với Chiến tranh thế giới thứ hai. Năm 1945, Triều Tiên bị chia cắt thành hai miền. Liên bang Xô viết chiếm đóng miền bắc cho đến vĩ tuyến 38 và Hoa Kỳ chiếm đóng từ vĩ tuyến 38 về phía nam. Hoa Kỳ và Liên bang Xô viết sau đó đã không thể đồng thuận về việc áp dụng Đồng uỷ trị ở Triều Tiên.

Vào tháng 11 năm 1947, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã đề ra một giải pháp tiến hành tổng bầu cử tại Triều Tiên dưới sự hỗ trợ của một Ủy ban Liên hợp quốc. Tuy nhiên, các chính phủ lâm thời tại 2 miền Triều Tiên đã khước từ việc tuân theo giải pháp này. Hội đồng Liên Hiệp Quốc sau đó đã đưa ra một giải pháp khác kêu gọi bầu cử tại các địa phương với sự giúp đỡ của Ủy ban Liên Hiệp Quốc. Những cuộc bầu cử đầu tiên được tiến hành riêng rẽ vào ngày 10 tháng 5 năm 1948, tại những tỉnh nằm ở phía nam vĩ tuyến 38. Vĩ tuyến này đã trở thành đường chia cắt bán đảo Triều Tiên thành hai miền nam và bắc Triều Tiên.

Điều này dẫn tới việc thành lập các chính phủ riêng biệt ở miền bắc và miền nam, Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên ở phía bắc và Đại Hàn Dân quốc ở phía nam, mỗi bên đều tuyên bố mình là chính phủ hợp pháp của toàn bộ lãnh thổ Triều Tiên.

Căng thẳng tăng lên giữa hai chính phủ ở miền bắc và miền nam cuối cùng dẫn tới cuộc Chiến tranh Triều Tiên, khi ngày 25 tháng 6 năm 1950, Quân đội Nhân dân Triều Tiên vượt vĩ tuyến 38, cáo buộc quân đội miền nam đã vượt qua trước, và tấn công – Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ. Hoa KỳLiên Hiệp Quốc hậu thuẫn Đại Hàn Dân Quốc, còn đứng đằng sau Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều TiênLiên XôTrung Quốc. Cuộc chiến kéo dài tới ngày 27 tháng 7 năm 1953, khi lực lượng Liên Hiệp Quốc và Quân đội Nhân dân Triều Tiên cùng Chí nguyện quân Trung Quốc ký kết Thoả thuận đình chiến Chiến tranh Triều Tiên. Vùng phi quân sự Triều Tiên phân chia hai nước, và bán đảo Triều Tiên bị chia cắt cho đến ngày nay.

Hơn 3 triệu người đã thiệt mạng hoặc bị thương và hàng chục triệu người khác bị mất nhà cửa hoặc vĩnh viễn chia lìa những người thân trong gia đình trong cuộc chiến tranh tàn khốc này.

Sau đó Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên tiếp tục theo đuổi sự nghiệp thống nhất đất nước trên cơ sở lập luận "một Triều Tiên", không công nhận chính phủ Hàn Quốc và chọn con đường thống nhất đất nước bằng cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hàn Quốc cũng coi chính phủ của mình là có chủ quyền hợp pháp trên toàn bán đảo Triều Tiên và không công nhận chính phủ Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Những quan điểm cứng nhắc, không nhân nhượng này khiến cho quá trình hòa giải giữa hai bên không thể thực hiện được cho đến tận thập niên 1960. Đến thập niên 1970 quan hệ hai bên dần được cải thiện. Hai bên Triều Tiên đã chính thức công nhận chính phủ của nhau. Năm 1991, cả hai nước được công nhận để chính thức gia nhập Liên hiệp quốc cùng một lúc. Hàn Quốc đã đầu tư kinh tế và là nước chủ yếu viện trợ lương thực giúp Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên vượt qua nạn đói thập niên 1990 thông qua chương trình lương thực Thế giới WEP của Liên hiệp quốc.

Park Geun-hyecon gái của Tổng thống Park Chung Hee và là nữ Tổng thống đầu tiên của Hàn Quốc.

Năm 1948, Lý Thừa Vãn đã giành thắng lợi trong cuộc bầu cử ở khu vực nam bán đảo Triều Tiên và trở thành vị tổng thống đầu tiên của Hàn Quốc. Lý Thừa Vãn thực thi một chính sách cai trị độc tài, đàn áp rất thẳng tay những người cánh tả, thậm chí còn sát hại không ít nhân vật bất đồng chính kiến. Đồng thời, bộ máy quản lý đất nước do ông xây dựng lại bị nạn tham nhũng nặng nề, kinh tế đất nước phát triển chậm chạp. Chính vì thế nên năm 1960, Lý Thừa Vãn phải đối mặt với làn sóng bất bình cực lớn của người dân. Cuối cùng, ông phải rời bỏ nhiệm sở, lên máy bay chạy sang bang Honolulu (Mỹ) và sống tị nạn tại đây cho tới cuối đời. Cho tới nay, dư luận ở Hàn Quốc vẫn đánh giá về Lý Thừa Vãn rất tiêu cực.

Chính phủ kế nhiệm của Chang-Myon bị lật đổ sau cuộc đảo chính của tướng Park Chung Hee vào ngày 16 tháng 5 năm 1961. Năm 1963, Park Chung Hee chính thức trở thành tổng thống. Park Chung Hee trở thành nhà độc tài thứ 2 tại Hàn Quốc.

Thông qua hoạt động của “Hiệp hội kêu gọi tái thiết quốc gia”, Park Chung Hee đã giải tán Quốc hội và các đảng phái chính trị đối lập hoạt động, đồng thời thẳng tay đàn áp các phong trào chống đối. Park Chung Hee ban hành các sắc lệnh cấm công nhân mít tinh, biểu tình, diễu hành. Ông còn cài cắm nhân viên thân chính phủ bên trong các tổ chức công đoàn của công nhân để giám sát và kìm hãm phong trào đấu tranh của họ. Quân đội Hàn Quốc được sử dụng như đạo quân lê dương đánh thuê cho Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam, và cũng là lực lượng chính tiến hành các vụ đàn áp, bắt bớ và do thám trong nước theo mệnh lệnh của Park Chung Hee.[16]

Trong suốt thập niên 1960, chính phủ của Park Chung Hee có xu hướng đàn áp thô bạo ngày càng tăng. Năm 1971, Park Chung Hee đã ban bố tình trạng khẩn cấp quốc gia “dựa trên thực tế nguy hiểm của tình hình quốc tế”. Tới tháng 10 năm 1972, ông lại khởi xướng một cuộc đảo chính để tự giải thể quốc hội và đình chỉ hiến pháp, dọn đường để bản thân lên nắm quyền lực thông qua bản hiến pháp Duy Tân vào tháng 11 và sau đó là một cuộc trưng cầu dân ý bị đánh giá, chỉ trích là gian lận nặng nề, theo đó chấm dứt bầu cử trực tiếp và chính thức suy tôn Park Chung Hee làm ‟Tổng thống trọn đời”. Park bị chỉ trích là một nhà độc tài quân sự tàn nhẫn, thế nhưng nền kinh tế Hàn Quốc đã được cải thiện rất đáng kể dưới nhiệm kỳ của Park. Chính phủ của ông đã phát triển một hệ thống đường cao tốc trên toàn quốc, hệ thống tàu điện ngầm Seoul và đặt nền tảng to lớn, vững chắc cho sự chuyển biến thần kỳ, mạnh mẽ của đất nước Hàn Quốc trong những thập niên sau đó.

Ngày 16 tháng 10 năm 1979, tại Trường Đại học Pusan, một nhóm sinh viên đã xuống đường kêu gọi chấm dứt ‟chế độ độc tài”. Làn sóng biểu tình nhanh chóng lan rộng, buổi tối hôm đó đã có tới 50.000 người tụ tập ở phía trước của hội trường thành phố Pusan. Trong hai ngày tiếp theo, một số văn phòng công cộng đã bị tấn công và khoảng 400 người biểu tình đã bị bắt giữ. Vào ngày 18 tháng 10, chính phủ Park Chung Hee tuyên bố thiết quân luật tại Pusan. Thế nhưng các cuộc biểu tình đã lan tới thành phố Masan, đặc biệt là ở Trường Đại học Tổng hợp Kyungnam. Bạo lực leo thang với các cuộc tấn công vào các đồn cảnh sát và trụ sở các cơ quan của đảng cầm quyền trong thành phố. Khủng hoảng xã hội đã khiến nội bộ lực lượng cầm quyền bị rạn nứt. Ngày 26 tháng 10 năm 1979, Park Chung Hee đã bị bắn chết bởi Kim Jae-gyu, đương kim Giám đốc cơ quan tình báo quốc gia Hàn Quốc (NIS). Sau đó Kim Jae-gyu đã bị tử hình nhưng cho đến tận ngày nay, một Uỷ ban đặc biệt của chính phủ vẫn phải tiếp tục thảo luận về việc có nên coi Kim Jae Gyu là người có công cho quá trình dân chủ hoá của Hàn Quốc hay không.

Thời đại Park Chung Hee kết thúc trong bạo lực và bất ổn xã hội. Một chính phủ tạm thời được thành lập, đất nước bị đặt trong tình trạng thiết quân luật. Bản thân Park Chung Hee chết do bị ám sát bởi một quan chức thân tín phản bội. Sự nghiệp chính trị của ông cũng bị hoen ố vì độc tài và ngày nay, nhiều người Hàn Quốc căm ghét Park Chung Hee dù ông có công rất lớn trong việc xây dựng và tái thiết lại đất nước. Khi Roh Moo Hyun lên làm Tổng thống vào năm 2003, chính phủ vẫn phải tiếp tục ban hành các đạo luật mới và thành lập các uỷ ban điều tra về tình trạng bạo lực dưới thời Park Chung Hee. Tuy vậy, trong một cuộc khảo sát của Viện nghiên cứu và phân tích thông tin Gallup vào năm 2015 tại Hàn Quốc, Park Chung Hee đã được bình chọn là Tổng thống vĩ đại nhất trong lịch sử nước này (với tỉ lệ bình chọn là 44%).[17]

Nghĩa trang Mangwol-dong ở Gwangju, thi thể các nạn nhân của vụ thảm sát Gwangju được chôn cất ở đây.

Năm 1980, Chung Doo-hwan được một hội đồng bầu cử bầu lên làm tổng thống. Ngày 18 tháng 5 năm 1980, tại thành phố Gwangju - thủ phủ của tỉnh Nam Jeolla đã xảy ra vụ nổi dậy Gwangju khi người dân địa phương đánh cướp kho vũ khí của các trạm cảnh sát địa phương để chống lại cảnh sát chính phủ của Chung Doo-hwan sau khi lực lượng này đàn áp một cuộc biểu tình ôn hòa đòi cải cách nền dân chủ của sinh viên địa phương. Quân đội Hàn Quốc với cả vũ khí sát thương, vòi rồng, xe tăng, xe bọc thép đã được điều động đến, 4 giờ sáng ngày 27 tháng 5 năm 1980, quân đội từ 5 hướng tiến vào trung tâm thành phố và đánh bại hoàn toàn lực lượng dân quân chỉ trong vòng 90 phút. Trong sự kiện này, quân đội Hàn Quốc được cho là đã nổ súng bắn chết khoảng 1.000 tới 2.000 thường dân[18][19].

Sau khi đàn áp hoàn toàn cuộc nổi dậy của người dân trong cuộc Thảm sát Gwangju, Chung Doo-Hwan bắt đầu loại bỏ các chính trị gia đối lập khỏi chính trường, và thanh lọc xã hội theo quy mô lớn. Đồng thời, chính phủ Hàn Quốc thiết lập một cơ sở đào tạo quân sự đặc biệt "Samcheong Education Troops", để tiến hành chương trình “giáo dục thanh lọc”. Khoảng hơn 40 nghìn người đã bị bắt đưa đến các cơ sở của Samcheong Education Troops. Số liệu thống kê về sau cho thấy có khoảng 54 người đã bị giết trong quá trình giam giữ và 397 người bị chết sau đó. Vào năm 1986, Chung Doo-Hwan ra lệnh bắt giữ và tra tấn nhiều nhà hoạt động, và rất nhiều tổ chức bị đàn áp như Liên minh Dân chủ Thống nhất và Phong trào Nhân dân.

Vào tháng 1 năm 1987, một vụ tra tấn của đã dẫn tới cái chết của Park Jong-Cheol, sinh viên của trường Đại học Quốc gia Seoul. Đầu năm 1987, người dân Hàn Quốc lại bắt đầu nổi dậy sau cái chết của sinh viên họ Park. Họ tổ chức hàng loạt các cuộc bạo động lớn để phản đối chính sách bắt bớ, thủ tiêu và tra tấn tàn bạo của chế độ Chung và đồng thời tiếp tục yêu cầu tiến hành sửa đổi Hiến pháp. Đây cũng chính là sự khởi đầu cho "Cuộc Nổi dậy Dân chủ Tháng Sáu", từ ngày 26 đến ngày 29, có đến hơn 1,4 triệu người đã tham gia cuộc "Tuần hành Hòa bình Vĩ đại của Nhân dân", được tổ chức tại 34 thành phố và 4 tỉnh, họ hô to khẩu hiệu “Bãi bỏ hiến pháp xấu xa” và “Xóa bỏ chế độ độc tài”. Dưới áp lực ấy, chính quyền Chung Doo-hwan đã buộc phải sửa đổi Hiến pháp, ban hành bản Hiến pháp mới vào ngày 29 tháng 10 năm 1987. Mặc cho tội ác thảm sát của mình, Chung Doo-hwan vẫn nắm vị trí cao nhất trong bộ máy quyền lực ở Hàn Quốc cho tới tận năm 1988. Năm 1996, ông bị chính phủ mới kết tội tham nhũng, hối lộ, ra lệnh thảm sát và bị kết án tử hình (sau đó được giảm xuống còn chung thân, tuy vậy ông ta nhanh chóng được Tổng thống Kim Young-Sam ân xá vào ngày 22 tháng 12 năm 1997).

Các cuộc nổi dậy đã để lại dấu ấn to lớn cho sự ra đời của chính phủ dân sự vào thập niên 1990 với đường lối đối ngoại mềm mỏng hơn rất nhiều. Tới năm 1987 hiến pháp được sửa đổi, theo đó, nhân dân Hàn Quốc lại được quyền trực tiếp bầu ra tổng thống. Sự kiện này đánh dấu quá trình chuyển đổi sang nền dân chủ của Hàn Quốc. Thủ đô Seoul của Hàn Quốc đã được chọn làm nơi tổ chức Thế vận hội Olympic năm 1988, một kỳ Thế vận hội vô cùng thành công và đã thúc đẩy đáng kể vị thế quốc tế của quốc gia này[20]. Hàn Quốc chính thức được mời trở thành thành viên của Liên Hợp Quốc vào năm 1991.

Các đời tổng thống tiếp theo là tướng Roh Tae-won (1987) và Kim Young-Sam (1992). Vị tổng thống thứ sáu là Roh Tae-won cũng bị kết án vì tội hối lộ, tham nhũng. Năm 1997, Tổng thống Kim Dae-jung được trao giải Nobel hoà bình vì những nỗ lực của ông trong việc bình thường hoá quan hệ với CHDCND Triều Tiên. Vào tháng 6 năm 2000, một hội nghị thượng đỉnh Liên Triều đã diễn ra tại Bình Nhưỡng, thủ đô của Bắc Triều Tiên, hội nghị là thành quả tích cực sau nhiều năm Hàn Quốc thực thi "Chính sách Ánh dương" với Bắc Triều Tiên do Tổng thống Kim Dae-jung đề xướng. Cuối năm đó, ông Kim đã nhận được giải thưởng Nobel Hòa bình do Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển trao tặng, giải thưởng nhằm vinh danh cho những nỗ lực to lớn, thiết thực của ông vì nền hòa bình lâu dài trên bán đảo Triều Tiên. Năm 2003 học trò của ông, Roh Moo-hyun kế nhiệm chức Tổng thống Hàn Quốc. Thế nhưng sau đó, đến lượt Roh Moo-hyun cũng phải đối mặt với lời buộc tội tham nhũng, và ông Roh tự sát vào ngày 23 tháng 5 năm 2009 bằng cách nhảy xuống từ một mỏm núi khi các cuộc điều tra đang tiếp diễn, do vậy nhiều người nghi ngờ vụ tự sát của ông là do sức ép từ các thế lực khác.[21]

Sau đó là ông Lee Myung-bak làm tổng thống trong giai đoạn 2008-2013. Năm 2018, ông Lee bị bắt giam do bị tòa án cáo buộc ít nhất 12 tội danh, trong đó có việc nhận hối lộ 11 tỷ won (tương đương 10,2 triệu USD) của Cơ quan Tình báo nhà nước và các doanh nghiệp Hàn Quốc. Bên cạnh đó, còn là những cáo buộc về tội danh trốn thuế và chiếm đoạt 35 tỷ won từ một công ty mà ông Lee Myung-bak bí mật sở hữu.[22] Vào tháng 3.2019, ông Lee được tại ngoại vì những lo ngại về sức khỏe. Tuy nhiên, vào ngày 19 tháng 2 năm 2020, tòa án quận trung tâm Seoul đã tuyên án ông Lee Myung-bak 17 năm tù và phạt tiền 13 tỉ won (11 triệu USD).[23]

Tiếp đến là Park Geun-hye (con gái của cố Tổng thống - nhà độc tài Park Chung Hee), bà là nữ Tổng thống đầu tiên trong lịch sử Hàn Quốc hiện đại đồng thời là vị Tổng thống dân cử đầu tiên tại châu Á. Tuy nhiên, tới đầu năm 2017, đến lượt bà Park Geun-hye cũng bị Quốc hội nước này phế truất và bắt giam với các cáo buộc; rằng bà Park đã tiết lộ bí mật quốc gia, nhận hối lộ, để người không có bất kỳ chức vụ, thẩm quyền gì là bà Choi Soon-sil (bạn thân của bà Park) can thiệp bất hợp pháp vào các tài liệu mật cũng như các công việc nội bộ của chính phủ, lạm quyền và tham nhũng.

Như vậy, tính đến năm 2018, trong số 11 Tổng thống Hàn Quốc (không tính các quyền Tổng thống chỉ tạm đảm nhiệm chức vụ trong mấy tháng do khủng hoảng chính trị), đã có một người bị ám sát, 1 người tự sát do bị điều tra, 1 người bị đảo chính và phải chạy ra nước ngoài tị nạn, 4 người khác bị bắt giam do các tội danh liên quan đến tham nhũng, nhận hối lộ.

Tái thống nhất với Bắc Triều Tiên là một chủ đề chính trị đang được bàn luận ở Hàn Quốc hiện nay, nhưng cho đến nay vẫn chưa có một hiệp định hoà bình nào được ký kết. Luật an ninh quốc gia Hàn Quốc hiện vẫn không cho phép người dân tiếp nhận bất cứ thông tin nào từ phía Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, những ai tỏ thái độ ủng hộ hoặc phát biểu ca ngợi Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên có thể bị kết án lên tới 10 năm tù giam[24][25][26]. Tổng thống Roh Moo-hyun đã nghĩ tới việc dỡ bỏ luật này, nhưng hiện tại điều đó vẫn chưa được thực thi.

Năm 2000, hai chính phủ đã chính thức gặp gỡ với nhau. Cuộc gặp gỡ này được xem như là sự thắng lợi của chính sách ánh dương trong việc bình thường hoá quan hệ giữa hai miền Triều Tiên.

Quá trình phát triển nền kinh tế

Từ năm 1962 đến 1994, nền kinh tế Hàn Quốc đã tăng trưởng trung bình trên 10% mỗi năm, giai đoạn này được gọi là "Kỳ tích trên dòng sông Hán".

Sau Chiến tranh Triều Tiên, khi Tướng Park Chung Hee nắm quyền vào năm 1961, kinh tế Hàn Quốc khá nghèo nàn với thu nhập bình quân đầu người ít hơn $100 USD mỗi năm. Hàn Quốc khi đó được xếp hạng là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới. Giai đoạn này, kinh tế Hàn Quốc cơ bản phụ thuộc vào viện trợ nước ngoài, chủ yếu là từ Mỹ. Viện trợ của Mỹ chiếm gần 80% tổng ngân sách của chính phủ và chiếm một tỉ lệ rất lớn trong tổng sản phẩm quốc gia (GNP) của Hàn Quốc. Mặc dù một số khu vực của đất nước đã trải qua quá trình công nghiệp hóa từ thời kỳ chiếm đóng của Nhật Bản, nhưng nhìn chung vào đầu thập niên 60 Hàn Quốc vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu và kém phát triển hơn về mọi mặt so với CHDCND Triều Tiên. Để tạo động lực phát triển kinh tế, Park Chung Hee đã mang "kỷ luật quân đội" và chính sách độc tài áp dụng trên toàn quốc. Một trong những mục tiêu chính của Park là chấm dứt tình trạng nghèo đói ở Hàn Quốc và biến đất nước từ một nền kinh tế thuộc Thế giới thứ ba trở thành một cường quốc kinh tế hàng đầu của thế giới.[27][28]

Ngay sau khi thực hiện thành công cuộc đảo chính để lên nắm chính quyền vào tháng 7 năm 1961, tướng Park Chung Hee tuyên bố rằng ông sẽ tiến hành “dọn rác” để làm sạch xã hội.[29] Ông đã trực tiếp chỉ đạo các lực lượng cảnh sát, quân đội thực hiện hàng ngàn vụ đàn áp, bắt bớ và tuyên bố trước hơn 20.000 sinh viên của Đại học Seoul rằng: “Toàn dân Hàn Quốc phải thắt lưng buộc bụng trong vòng 5 năm, phải cắn răng mà làm việc nếu muốn được sống còn. Nếu làm được như vậy thì trong vòng 10 năm tới, chúng ta sẽ tạo ra được một nền kinh tế đứng đầu ở khu vực Đông Á, và sau 20 năm, chúng ta sẽ trở thành cường quốc kinh tế trên thế giới... Hôm nay, có thể có một số người dân còn bất đồng ý kiến với tôi, nhưng xin hiểu cho rằng tổ quốc của chúng ta quan trọng hơn quyền lợi cá nhân. Tôi sẽ cương quyết ban hành một chính sách khắc khổ. Tôi sẽ bắn bất cứ kẻ nào ăn cắp của công dù chỉ một đồng. Tôi sẵn lòng chết cho lý tưởng mình đã đề ra”.[30]

Việc đầu tiên ông làm là đem tử hình 24 quan chức và doanh nhân vì tội tham nhũng. Mọi người đều phải làm việc hết sức mình, ai làm không chăm sẽ bị phê bình, mắng nhiếc trước mặt mọi người, thậm chí sẽ bị bạt tai làm gương. Một số ngành do quân đội xây dựng, khi người lính làm việc không chăm, cấp trên có quyền trừng phạt bằng đòn roi. Những du học sinh trước khi ra nước ngoài học tập phải cam kết không ở lại nước ngoài mà phải về nước phục vụ dù muốn hay không, những ai đã học xong mà không quay về nước thì gia đình họ sẽ phải chịu những hình phạt nặng.[31]

Park chuyển chiến lược của nền kinh tế đất nước từ công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu sang công nghiệp hóa định hướng xuất khẩu. Park thành lập một Ủy ban Kế hoạch Kinh tế (EPB) để điều hành nền kinh tế đất nước. Lấy kế hoạch năm năm của Liên Xô làm kiểu mẫu, Park đã đề ra Kế hoạch năm năm đầu tiên vào năm 1962. Nhiệm vụ chủ chốt của Kế hoạch năm năm đầu tiên là tập trung phát triển các ngành công nghiệp nhẹ nhằm mục đích xuất khẩu. Ông tuyên bố thành phố Ulsan là một "khu vực phát triển công nghiệp đặc biệt" của đất nước. Ngay sau đó, Hyundai - một trong những tài phiệt lớn đầu tiên của Hàn Quốc đã nhanh chân tận dụng vị thế đặc biệt của Ulsan để biến thành phố này thành nơi đặt các nhà máy chính của mình.

Hầu hết các nhà sử học đều coi Kế hoạch năm năm đầu tiên là điểm cất cánh của nền kinh tế Hàn Quốc. Từ năm 1962 đến năm 1966, tốc độ tăng trưởng của kinh tế Hàn Quốc đạt tới 7,6%. Sản lượng xuất khẩu tăng trên 30% mỗi năm, sản lượng sản xuất tăng trên 15% mỗi năm. Vì các chính sách phát triển kinh tế của Park được thúc đẩy bởi chủ nghĩa dân tộc và mong muốn giành quyền tự chủ cho đất nước của mình, do đó Park chủ trương không để cho nền kinh tế của Hàn Quốc bị phụ thuộc và chi phối bởi nước ngoài. Do đó, ban đầu ông đã ra sức hạn chế đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Hàn Quốc. Tuy nhiên, theo lời khuyên của các nhà kinh tế, ông bắt đầu dần dần nới lỏng những hạn chế này. Năm 1966, Đạo luật kích thích vốn đầu tư nước ngoài được chính phủ Park thông qua đã cung cấp những ưu đãi về thuế cho các nhà đầu tư nước ngoài và hợp lý hóa quy trình đầu tư vào Hàn Quốc. Kế hoạch năm năm lần thứ hai (1967-1971) cũng đã nhấn mạnh hơn vào việc thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài và cải thiện cơ sở hạ tầng trong nước.[32]

Vào năm 1972, Park tuyên bố thiết quân luật và ban hành một hiến pháp mới mang lại cho ông ta quyền lực gần như một nhà độc tài. Sử dụng quyền lực của mình, Park đã chuyển hướng nền kinh tế của đất nước sang tập trung vào phát triển các ngành công nghiệp nặnghóa chất. Từ năm 1973, nền kinh tế Hàn Quốc đặt trọng tâm chủ yếu vào 6 ngành: thép, hóa chất, luyện kim, chế tạo máy, đóng tàuđiện tử. Giai đoạn phát triển công nghiệp này tập trung tại các thành phố nhỏ nằm ở phía đông nam của đất nước.[33]

Kế hoạch phát triển kinh tế của Park Chung Hee dựa vào xuất khẩu nhờ giá thành thấp. Chi phí sản xuất được cố tình hạ thấp đến mức tối thiểu bằng cách toàn dân phải cam chịu gian khổ, tiêu dùng hết sức tiết kiệm. Để người lao động có thể sống với mức lương rất thấp, chính quyền đã áp dụng biện pháp giữ giá những sản phẩm nông nghiệp ở mức rất thấp. Cuối thập niên 70, công nghiệp Hàn Quốc đã sản xuất được máy thu hình màu, nhưng chỉ để xuất khẩu, trong nước chỉ dùng TV trắng đen. Các sản phẩm xa xỉ như mỹ phẩm, xe hơi cao cấp, quần áo thời trang... bị hạn chế nhập khẩu ở mức tối đa.

Quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng của Hàn Quốc cũng phải trả giá bằng sự hy sinh rất lớn của tầng lớp lao động. Quyền của người lao động bị hạn chế tối đa vì từ năm 1962, chính sách toàn quốc thắt lưng buộc bụng được áp dụng từ Tổng thống đến dân chúng. Người dân làm việc nặng nhọc và triền miên, nhưng sống rất kham khổ. Hàng tuần mỗi người dân đều phải nhịn ăn một bữa, không hút thuốc lá ngoại nhập, không uống cà phê. Thời gian lao động kéo dài đến 12-14 tiếng mỗi ngày. Điều kiện lao động kém, tiền lương rất thấp. Những phản kháng tự phát của công nhân, nông dân hoặc của dân nghèo thành thị đòi hỏi cải thiện điều kiện sống đều bị chính quyền Park Chung Hee đàn áp không thương tiếc. Như Michael Schuman, một nhà báo nổi tiếng chuyên về kinh tế của tờ Time (Mỹ) về sau nhận định: “Chế độ Park Chung Hee đã thực hiện quyền kiểm soát nhà nước đối với nền kinh tế một cách tàn bạo vượt xa cả con quỷ Sahashi”.[34]

Một phụ nữ Việt Nam 21 tuổi bị lính Hàn Quốc cắt trong cuộc thảm sát tại làng Phong Nhị, tỉnh Quảng Nam, ngày 12 tháng 2 năm 1968.

Mặt khác, Hàn Quốc đã cử khoảng 320.000 quân nhân sang tham chiến cùng Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam để đổi lấy những khoản viện trợ từ Mỹ. Ước tính có hơn 5.000 binh lính Hàn Quốc đã chết và khoảng 11.000 lính khác bị thương tật nặng trong cuộc chiến này[35][36]. Đội quân này cũng gây ra một danh sách dài những tội ác chiến tranh, những vụ thảm sát thường dân Việt Nam khi tham chiến và đã bỏ lại nơi đây hàng ngàn đứa con lai sau khi rời đi (Hàn Quốc thống kê lính của họ đã giết tổng cộng 41.000 người Việt Nam[37] bị nghi ngờ là Việt Cộng, phần lớn là thường dân). Đổi lại, chính phủ Hoa Kỳ tài trợ mọi khoản chiến phí và trả tiền lương cho lính Hàn Quốc. Tổng cộng Mỹ đã viện trợ hoặc cho Hàn Quốc vay khoảng 10 tỷ USD (tương đương 70 tỷ USD theo thời giá năm 2017) từ năm 1946 tới năm 1978. Trong đó nhiều nhất là trong giai đoạn 1965-1972, khi Hàn Quốc cử lính sang Việt Nam để đánh thuê cho Mỹ: chỉ riêng trong 8 năm này, Hàn Quốc nhận được 5 tỷ USD viện trợ của Mỹ (tương đương 35 tỷ USD theo thời giá 2017), nhiều gấp 3 lần mức viện trợ trong giai đoạn trước. Trong hai năm đầu (1965-1966), thu nhập từ việc đánh thuê cho Mỹ chiếm 40% thu nhập ngoại hối của Hàn Quốc. Một số học giả cho rằng số tiền có được từ cuộc chiến chiếm từ 7-8% GDP của Hàn Quốc trong những năm 1966-1969.[38] Số tiền đánh thuê được chuyển thẳng cho chính phủ Hàn Quốc dưới hình thức "bán công khai" như trợ cấp phát triển quốc phòng, hợp đồng dân sự, chuyển giao công nghệ và ưu đãi thị trường bởi các Tổng thống JohnsonNixon.[39] Các công ty Hàn Quốc như Hyundai đã tích lũy được những kinh nghiệm quý báu trong việc hoàn thành các dự án xây dựnggiao thông cho Hoa Kỳ tại miền Nam Việt Nam, kinh nghiệm mà họ đã áp dụng để giành được nhiều hơn những hợp đồng béo bở ở Trung Đông và nhiều nơi khác trên thế giới.

Nhờ viện trợ và tiền lương của Mỹ trả cho binh lính Hàn Quốc tham chiến ở Việt Nam, kinh tế Hàn Quốc phát triển nhanh chóng. Chỉ trong 10 năm từ 1964 tới 1974, GNP bình quân của Hàn Quốc đã tăng hơn 5 lần (từ 103 USD lên 541 USD). Rất nhiều máu đã đổ khi lính Hàn Quốc tham chiến ở Việt Nam, và nhiều ý kiến khẳng định rằng những tổn thất sinh mạng đó đã góp phần không nhỏ cho sự phát triển kinh tế của Hàn Quốc[37]. Sau này, trong bài phát biểu nhân “Ngày tưởng niệm" (6/6/2017), Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in đã khẳng định rằng:[40]

“Nền kinh tế Hàn Quốc đã tồn tại được là nhờ vào sự cống hiến và hy sinh của những người lính tham gia chiến tranh Việt Nam!”

Nhật Bản cũng đóng một vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế thần kỳ của Hàn Quốc. Park đã bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Nhật Bản vào năm 1965, một động thái gặp phải sự phản đối gay gắt của người dân Hàn Quốc. Lao động giá rẻ ở trong nước kết hợp với vốn và công nghệ của Nhật Bản đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình công nghiệp hóa của Hàn Quốc. Sau khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao, Nhật Bản đã trở thành nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ hai ở Hàn Quốc, chỉ đứng sau Hoa Kỳ. Trong vòng mười năm sau đó, thương mại giữa hai nước đã mở rộng hơn mười lần; Từ năm 1962 đến 1979, 60% công nghệ từ nước ngoài của Hàn Quốc là do Nhật Bản cung cấp[41]. Thị trường Mỹ cùng với các khoản đầu tưchuyển giao công nghệ của Nhật Bản đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự chuyển biến thần kỳ của nền kinh tế Hàn Quốc. Kinh tế Nhật Bản cũng là một mô hình hoàn hảo để Hàn Quốc noi theo trong công cuộc phát triển kinh tế. Trong thời kỳ thuộc địa và kể cả sau khi giành được độc lập, người Hàn Quốc đã học hỏi được rất nhiều điều từ người Nhật về những gì mà một quốc gia không thuộc phương Tây có thể làm để công nghiệp hóa và hiện đại hóa thành công. Một nhà kinh tế học người Hàn Quốc đã mô tả chính sách của cộng đồng doanh nghiệp nước này là “Làm hệt như những gì người Nhật đã làm, nhưng làm điều đó một cách nhanh hơn, hiệu quả và ít tốn kém hơn”.[42]

Park Chung Hee cho rằng, Hàn Quốc cần phải phát triển kinh tế vững mạnh trước khi có thể có dân chủ: “Người châu Á sợ hãi đói nghèo hơn là sợ độc tài. Các dân tộc châu Á muốn có bình đẳng kinh tế trước rồi sau đó mới xây dựng cơ chế chính trị công bằng hơn… và viên ngọc chẳng có gì rực rỡ được gọi là chế độ dân chủ là vô nghĩa đối với những người đói khát và tuyệt vọng”. Bằng lý lẽ này, Park Chung Hee sử dụng hệ thống cảnh sát mật để theo dõi và dẹp tan mọi hành vi chống lại ông. Tất cả mọi cá nhân có phát ngôn chống Chính phủ, mọi cuộc biểu tình đòi tăng lương đều bị trấn áp thẳng tay. Park Chung Hee sử dụng luật an ninh chống cộng để bỏ tù và tra tấn bất cứ ai bất đồng chính kiến. Các cuộc biểu tình, hệ thống báo chí và phát ngôn nói chung đều bị kiểm duyệt hà khắc. Các sĩ quan cảnh sát mang thước và chặn thanh niên trên phố để đo tóc và váy của họ. Chính quyền rất thô bạo nếu thanh niên để tóc dài, phụ nữ mặc váy ngắn. Gián điệp, chỉ điểm có mặt khắp mọi nơi, giám sát đến cả trường học. Những người bất đồng chính kiến khó thoát khỏi bị bắt và mòn mỏi ở trong tù. Nếu một người bị quy là người cộng sản, người đó sẽ mất hết mọi quyền tồn tại trong xã hội. Quy kết sự phê phán nhằm vào một chính sách nào đó của chính phủ là “Cộng sản chủ nghĩa” là phương cách ưa thích và hiệu quả. Khi một nhà hoạt động xã hội bị bắt, người đó sẽ bị tra tấn dã man để phải thú nhận mình là người cộng sản [43]. Cho đến nay, không một chính trị gia Hàn Quốc nào có thể tạo được uy quyền bao trùm cũng như khiến nhiều người dân Hàn Quốc sợ hãi như Park Chung Hee.

Chế độ độc tài quân sự của Park Chung Hee mang tính chất chuyên chế độc đoán, phản dân chủ mạnh mẽ, nhưng cũng không thể phủ nhận những mặt tích cực của chế độ chính trị này đối với việc định hướng diện mạo nền kinh tế và xã hội Hàn Quốc ngày nay[16]. Bên cạnh các biện pháp chính trị, Park Chung Hee sử dụng các yếu tổ văn hóa Nho giáo để thúc đẩy phát triển đất nước. Vào đầu những năm 1970, Park Chung Hee dự định dẹp bỏ tất cả những gì gọi là truyền thống để nhanh chóng đạt được hiện đại hóa. “Phong trào xây dựng nông thôn mới” đã đập phá nhiều di sản văn hóa, những truyền thống đều bị coi là “cổ hủ”, "lạc hậu" và "lỗi thời", cần phải gạt bỏ nhanh chóng để tiến lên hiện đại hóa[44]. Nhưng về tư tưởng, Park Chung Hee nhận thấy ông không thể đưa ra được một học thuyết chính trị mới nào để thay thế Nho giáo mà nhận ra rằng, không thể không sử dụng những yếu tố tích cực của Nho giáo, trong đó, Trung (trung thành) và Hiếu (hiếu thảo) là giá trị quan xuyên suốt nhiều thế kỷ ở Hàn Quốc. Đã xảy ra nhiều cuộc tranh luận nóng bỏng giữa các học giả Hàn Quốc về tính hữu dụng của truyền thống, của yếu tố tích cực trong Nho giáo mà kết quả cuối cùng là Park Chung Hee đã đi đến quyết định: "Giá trị quan của Nho giáo về "Trung" và "Hiếu" là nền tảng của xã hội", những chính sách giáo dục đề cao đạo Khổng được ông ra chỉ thị tiếp tục dạy trong nhà trường và truyền bá sâu rộng trong đời sống nhân dân.[45]

Sự tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này đã cải thiện đáng kể mức sống cho người dân Hàn Quốc. Cuối năm 1965, khoảng 58,7% lực lượng lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, nhưng tỷ lệ này đã giảm xuống còn 50,4% vào năm 1970 và 38,4% vào năm 1978. Công nghiệp hóa dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng dân số đô thị của Hàn Quốc, tăng từ 28,3% tổng số năm 1960 lên 54,9% vào năm 1979. Năm 1960, khoảng một phần ba trẻ em từ 12 đến 14 tuổi theo học tại các trường trung học; tỷ lệ đó tăng lên 53,3% vào năm 1970 và 74,0% vào năm 1975. Năm 1960, chỉ có khoảng 19,9% dân số từ 15 đến 17 tuổi đi học; tỷ lệ đó tăng lên 29,3% vào năm 1970 và 40,5% vào năm 1975[46]. Năm 1970, quá trình xây dựng tuyến đường cao tốc Gyeongbu đã được hoàn thành[47], liên kết Seoul với khu vực phía đông nam của quốc gia và các thành phố cảng lớn như IncheonBusan[48]. Vào năm 1969, cả nước chỉ có 200.000 máy truyền hình, đến năm 1979 đã có sáu triệu máy truyền hình [49]. Nếu như vào năm 1969, chỉ có 6% hộ gia đình ở Hàn Quốc sở hữu một chiếc tivi; thì đến năm 1979, đã có 4/5 hộ gia đình Hàn Quốc sở hữu TV.[49]

Nhờ những biện pháp cứng rắn về chính trị, khắc khổ về kinh tế cũng như sử dụng yếu tố văn hóa, từ thập niên 1960, kinh tế Hàn Quốc phát triển với tốc độ rất nhanh. Vào ngày 26 tháng 10 năm 1979, Tổng thống Park Chung Hee bị ám sát. Một thời kỳ hỗn loạn chính trị tiếp diễn, cộng với sự tăng vọt của giá dầu mỏ trong năm 1979, một vụ thu hoạch lúa thất bát và tỷ lệ lạm phát đáng báo động là 44%, khiến cho nền kinh tế Hàn Quốc phải chịu mức suy thoái lên tới 6% trong năm 1980. Nhưng nền kinh tế đã nhanh chóng phục hồi. Thập niên 1980 chứng kiến tốc độ tăng trưởng GDP cao, đạt đỉnh điểm vào những năm 1986-1988 ở mức 12% mỗi năm, nền kinh tế Hàn Quốc trở thành nền kinh tế đạt mức tăng trưởng cao nhất thế giới thời điểm đó. Hàn Quốc được xếp vào một trong những nước công nghiệp hóa mới (NICs) của thế giới. Những năm sau đó, tốc độ tăng trưởng chậm lại, nhưng nền kinh tế Hàn Quốc tiếp tục tăng trưởng nhanh cho đến năm 1996 với tốc độ tăng trưởng trung bình là hơn 10% mỗi năm [50].Năm 2004, GDP của Hàn Quốc là 680 tỉ USD (Đô la Mỹ), đứng thứ 12 trên thế giới. Thành công trong phát triển kinh tế của Hàn Quốc được gọi là "Kỳ tích sông Hán" (한강의 기적).[51]

Tổng hành dinh của Tập đoàn Samsung - Chaebol lớn mạnh nhất Hàn Quốc.

Trong bối cảnh chính trị như vậy, nền kinh tế Hàn Quốc cũng phát triển theo mô hình "Độc tài". Các Chaebol - tức Tài phiệt (財閥, 재벌)[52], là tên gọi của các đại tập đoàn gia đình lớn của Hàn Quốc. Thông thường tài phiệt là các tập đoàn đa quốc gia, với thành viên bao gồm rất nhiều các doanh nghiệp quốc tế[52] nhưng đều nằm dưới sự điều khiển của một ông chủ nắm quyền hành trên tất cả các cơ sở này.[52][53] Hiện nay, ở Hàn Quốc có đến hàng chục nhóm tài phiệt như vậy, hầu hết nằm dưới sự điều khiển tuyệt đối của một vài gia tộc. Đến năm 2008, khoảng 80% GDP của Hàn Quốc có nguồn gốc từ các tài phiệt[54], chỉ riêng Samsung đã chiếm tới 1/5 giá trị xuất khẩu của nước này. Các tài phiệt đóng một vai trò quan trọng trong việc chi phối nền chính trị Hàn Quốc. Ví dụ, vào năm 1988, chủ tịch của tập đoàn Hyundai là ông Jeong Mong-jun đã trúng cử vào Quốc hội Hàn Quốc. Một số lãnh đạo tài phiệt khác cũng trúng cử đại biểu quốc hội thông qua cơ chế đại biểu tỷ lệ.

Các tài phiệt chỉ nắm giữ một phần nhỏ cổ phần nhưng lại có rất nhiều quyền lực và có khả năng kiểm soát tất cả các công ty con. Ví dụ Samsung chỉ sở hữu 0,5% tài sản của các hãng thuộc quyền, nhưng thực tế thì một tổ chức mẹ có quyền chi phối mọi mặt tất cả các công ty con này. Điều này cho thấy mức độ tuân thủ pháp luật ở các tài phiệt Hàn Quốc là rất thấp.[53] Các tài phiệt duy trì quyền lực của mình thông qua việc sở hữu chéo (cross-holding).[55] Các tài phiệt lũng đoạn nền kinh tế của Hàn Quốc, một số công ty như Hyundai và SK thậm chí có dính líu đến các vụ bê bối liên quan tới các tổng thống như Kim Dae-jung, Roh Moo-hyun.[56]

Từ 1998 đến 2007, Hàn Quốc đã có những tiến bộ trong tiến trình dân chủ hoá, song đôi khi vẫn trượt theo hướng độc tài. Đã có rất nhiều tổ chức phi chính phủ giả hiệu (pseudo-NGOs) hoạt động theo mệnh lệnh của chính quyền, nhiều nhóm cánh hữu, nhiều tổ chức hiện “vẫn tìm cách bảo vệ những quyền ưu tiên mà họ có được từ thời của chế độ độc tài”. Ở Hàn Quốc, quá trình dân chủ hoá diễn ra trong bối cảnh của tăng trưởng kinh tế nhưng không phải là sự phát triển kinh tế trực tiếp thúc đẩy dân chủ hoá. Các phương thức phát triển kinh tế trở nên phản nhân văn và mang nặng tính bóc lột. Người Hàn Quốc hiện nay phải gánh chịu rất nhiều áp lực trong cuộc sống, nhất là về công việc và học tập.[57]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Hàn_Quốc http://www.globalresearch.ca/south-koreas-armed-fo... http://www.rom.on.ca/news/releases/public.php?medi... http://chr.sagepub.com.ezproxy.library.ubc.ca/cont... http://www.chinadaily.com.cn/english/doc/2004-11/2... http://mistletoe.co/index.html http://www.allacademic.com/meta/p_mla_apa_research... http://www.ameinfo.com/66004.html http://www.brecorder.com/world/global-business-a-e... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/322280/S... http://english.chosun.com/site/data/html_dir/2010/...